Top 30 Đánh giá, phân tích tác phẩm Mùa Xuân Chín (siêu hấp dẫn)

Tập hợp Top 30 Đánh giá, phân tích tác phẩm Mùa Xuân Chín (siêu hấp dẫn) là vấn đề trong bài viết bây giờ của chúng mình Tablenow.vn. Theo dõi nội dung để hiểu nhé.

Tổng hợp hơn 30 bài phân tích, đánh giá Mùa Xuân Chín hay nhất, với cấu trúc chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn tốt hơn.

Top 30 Phân tích, đánh giá Mùa Xuân Chín (cực kỳ hấp dẫn)

Phân tích, đánh giá Mùa Xuân Chín – mẫu số 1

Khi nhắc đến Hàn Mặc Tử, nhà thơ Chế Lan Viên từng nói: ‘Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa, rực rỡ của mình’. Ông đã để lại cho thơ ca Việt Nam rất nhiều bài thơ hay và ý nghĩa. Hồn thơ Hàn Mặc Tử được coi là hồn thơ ‘điên’ cất lên từ số phận bất hạnh với những ám ảnh về ‘trăng’ và ‘máu’. Nhưng trong tác phẩm ‘Mùa xuân chín’, thi nhân đã đem đến cho người đọc những cảm nhận về bức tranh thiên nhiên mùa xuân căng tràn sức sống. Từ đó, thể hiện tình yêu thiên nhiên, khát khao giao cảm với đời, với người mãnh liệt của ông.

Ngay từ nhan đề bài thơ đã gợi ra vẻ đẹp mùa xuân rực rỡ, tròn đầy. Động từ trạng thái ‘chín’ kết hợp với danh từ ‘mùa xuân’ gợi cho ta liên tưởng về một mùa xuân đang vào giai đoạn đẹp nhất, căng tràn sức sống nhất. Đồng thời, bộc lộ sự tiếc nuối của thi nhân trước cái đẹp không thể níu giữ, kéo dài vĩnh viễn. Mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình đi từ ngoại cảnh đến tâm cảnh.

Mạch thơ được triển khai thông qua hệ thống hình ảnh, các biện pháp tu từ, sự phối hợp nhịp và vần trong toàn bộ bài thơ. Có thể thấy, nhân vật trữ tình vừa hòa mình với thiên nhiên, trân trọng, nâng niu những vẻ đẹp bình dị của cuộc sống, vừa có những phút giây thoát li khỏi thực tại để trắc ẩn, ưu tư. Vì thế, giọng điệu bài thơ cũng được biến chuyển liên tục để phù hợp với tâm trạng của nhân vật trữ tình. Khi thì tha thiết, say sưa khi thì bị ngưng lại, tạo sự lắng đọng trong cảm xúc.

Mô tả cảnh mùa xuân thông qua hai hình tượng chính là thiên nhiên và con người. Sự tươi đẹp của thiên nhiên được miêu tả qua những hình ảnh sống động: ‘làn nắng ửng’, ‘khói mơ tan’, ‘bóng xuân sang’, ‘sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời’. Hình ảnh ‘làn nắng ửng’ mang lại hình dung về màu sắc của nắng sớm mới lên, trong trẻo. ‘Khói mơ tan’ có thể là khói từ những căn bếp hoặc là làn sương mơ màng. Cảnh nhà tranh được nắng ửng phủ vàng tạo nên bức tranh quê mùa sớm yên bình. Câu thơ ‘sột soạt gió trêu tà áo biếc’ diễn đạt âm thanh của gió thổi nhẹ nhàng. Mùa xuân được hình thành qua các hình ảnh và biện pháp tu từ.

Trong cảnh thiên nhiên tươi đẹp đó, con người trẻ tuổi xuân nổi bật. Những hình ảnh như ‘bao cô thôn nữ’, ‘đám xuân xanh’, ‘tiếng ca vắt vẻo’, ‘ai ngồi dưới trúc’, ‘khách xa’, ‘chị ấy’ đều tạo ra hình ảnh sinh động về sự xuất hiện của con người. Câu thơ ‘- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,/ Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi’ thể hiện sự tiếc nuối về tuổi trẻ. ‘Tiếng ca’ được nhân hóa thông qua từ láy ‘vắt vẻo’, ‘hổn hển’, ‘thầm thĩ’, tạo ra sự trầm bổng khác nhau.

Trái ngược với tươi vui của thiên nhiên mùa xuân, nhân vật trẻ tuổi trữ tình cảm thấy buồn bã. Nhân vật được mô tả qua hình ảnh ‘khách xa’. Cảnh này gợi ra cảm giác buồn lãng mạn, bất ngờ. Sự tiếc nuối về quê hương hiện lên rõ ràng. Câu thơ ‘ – Chị ấy, năm nay còn gánh thóc/ Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?’ thể hiện nỗi nhớ quê hương, khát khao giao cảm với đời.

So với việc miêu tả mùa xuân của Nguyễn Bính, ‘Mùa xuân chín’ của Hàn Mặc Tử tập trung vào sự tiếc nuối và mặc cảm của nhân vật trẻ tuổi. Hàn Mặc Tử sử dụng ngôn từ giàu sức gợi để mô tả mùa xuân ở trạng thái tròn đầy nhất.

Hàn Mặc Tử đã tạo ra một bức tranh sống động với đầy đủ màu sắc, đường nét và âm thanh của mùa xuân thông qua các biện pháp nghệ thuật như đảo ngữ, so sánh, nhân hóa và ẩn dụ để chuyển đổi cảm giác. ‘Mùa xuân chín’ thể hiện sự khao khát giao cảm với cuộc sống của một hồn thơ ‘điên’ đang đối mặt với căn bệnh nhưng vẫn luôn nhìn về phía trước.

Dàn ý Phân tích và Đánh giá Mùa xuân chín

1. Giới thiệu:

– Thông tin về tác giả và tác phẩm.

– Đề cập đến vấn đề chính sẽ được phân tích trong bài viết.

2. Nội dung chính:

a. Phân tích và đánh giá ý tưởng, cảm xúc của nhân vật trữ tình.

– Tựa bài thơ: Tạo ra hình ảnh sự tràn đầy, đầy đủ của mùa xuân.

– Mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình từ bề ngoài đến bên trong.

b. Phân tích và đánh giá sự phát triển của hình tượng chính và tính độc đáo của ngôn ngữ được sử dụng

* Bối cảnh mùa xuân:

– Thiên nhiên tươi đẹp, tràn đầy sức sống:

+ Hình ảnh thơ gợi cảm và sâu sắc: ‘làn nắng ửng’, ‘khói mơ tan’, ‘bóng xuân sang’, ‘sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời’.

+ Biện pháp tu từ: Ẩn dụ chuyển đổi cảm xúc trong ‘bóng xuân sang’. Sử dụng đảo ngữ trong ‘Sột soạt gió trêu tà áo biếc’ với từ láy ‘sột soạt’ để diễn đạt âm thanh của gió thổi mềm mại, trêu chọc áo biếc.

+ Nhịp thơ: linh hoạt thay đổi. => Tạo không gian mở.

+ Gieo vần: ‘vàng’ – ‘sang’, ‘trời’ – ‘chơi’ => Mở ra không gian rộng lớn.

=> Ngôn từ trong bài thơ mô tả khung cảnh của một mùa xuân đang trong giai đoạn tươi đẹp nhất, rực rỡ và tràn đầy sức sống.

– Con người ở tuổi xuân rực rỡ:

+ Hình ảnh thơ phong phú: ‘đám xuân xanh’, ‘tiếng ca vắt vẻo’, ‘khách xa’, ‘chị ấy’.

+ Sử dụng biện pháp tu từ:

Nhân hóa ‘tiếng ca’ – ‘vắt vẻo’, ‘hổn hển’

So sánh ‘tiếng ca’ – ‘âm thanh của nước mây’

+ Nhịp thơ linh hoạt thay đổi để phản ánh tâm trạng nuối tiếc của nhân vật trữ tình.

=> Trong bối cảnh mùa xuân, con người hiện lên với tiếng ca trong trẻo, ngây thơ.

* Tâm trạng của nhân vật trữ tình:

– Câu hỏi tĩnh lặng: ‘- Chị ấy, năm nay còn gánh thóc/ Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?’

– Sử dụng gieo vần ‘làng’ – ‘chang chang’ để thể hiện sự vang vọng trong tâm tưởng của nhân vật trữ tình.

– Hệ thống từ láy: ‘Hổn hển’, ‘thầm thĩ’, ‘chang chang’, ‘bâng khuâng’.

=> Thể hiện lòng nhớ nhà, khao khát kết nối với con người và cuộc sống.

c. Đánh giá sự hấp dẫn đặc biệt của bài thơ so với các tác phẩm cùng chủ đề.

– So sánh với ‘Mùa xuân xanh’ của Nguyễn Bính để nhận thấy sự độc đáo, cuốn hút.

3. Kết luận

– Xác nhận giá trị văn hóa và nghệ thuật cũng như ý nghĩa sâu sắc của bài thơ.

Phân tích, đánh giá Mùa xuân chín – phiên bản 2

Hàn Mặc Tử là một nhà thơ có phong cách riêng biệt, độc đáo. Ông để lại cho thế hệ sau nhiều tác phẩm nổi tiếng như Gái Quê, Thơ Điên, Chơi Giữa Mùa Trăng. ‘Mùa xuân chín’ là một ví dụ điển hình, góp phần làm nên tên tuổi của ông.

Tiêu đề bài thơ “Mùa xuân chín” rất ấn tượng, nghe như mang đậm hơi thở của mùa xuân, với hương thơm dịu dàng, sự rạng rỡ, cùng với sự giàu ý nghĩa sâu sắc, khiến chúng ta tò mò muốn khám phá để hiểu rõ hơn về ý nghĩa của mùa xuân trong thơ của Hàn Mặc Tử.

“Dưới ánh nắng nhẹ và khói mơ tan

Nền nhà tranh bắt mắt như được phủ một lớp vàng

Gió nhẹ nhàng đùa giỡn với chiếc áo màu xanh nhạt

Trên giàn thiên lí, bóng xuân tràn ngập

Khung cảnh mùa xuân ở quê thật thanh bình, đẹp đẽ và đầy tình yêu thương. Dưới ánh nắng nhẹ nhàng của bầu trời và làn khói xa như tan biến, tạo ra một vẻ đẹp mộng mơ và thực tế, không quá chi tiết mà chỉ là những nét chấm phá nhưng đủ để khiến chúng ta xuyến xao trước bức tranh yên bình của bầu trời lúc này. Trên những mái nhà tranh của vùng quê nghèo, nơi hoa thiên lý nở rộ, cơn gió nhẹ nhàng thổi những chiếc lá xanh biếc, tạo ra âm thanh lạ lùng, tất cả đều rất nhẹ nhàng và đáng yêu.

Mùa xuân đang lan tỏa khắp nơi, trên giàn thiên lí đã báo hiệu xuân về. Mùa xuân đang đến, mọi thứ trở nên hài hòa: cây cỏ, thiên nhiên, trời đất và trái tim con người đều hòa quyện vào nhau.

“Bên bờ cỏ xanh tươi lay nhẹ

Đàn quạ hót líu lo trên cành”

Mỗi giọt sương mai nắng mới rạng, làn mưa xuân thức tỉnh đời xanh biếc “lấp lánh tới bầu trời”, như đang nhấp nhô vui tươi với gió, với mây. Tiếng cao vang trong gió của những cô gái thôn quê đậm đà, mùa xuân đang tới khiến lòng người rộn ràng, hân hoan, tràn đầy năng lượng, yêu cuộc sống. Giai điệu nhạc vang lên cùng những từ ngôn thơ:

“Hôm sau trong vòng ngày xuân ấy

Có ai rời xa hạnh phúc chung.”

Niềm vui của mùa xuân kết hợp với niềm vui của tình yêu đôi lứa, và ngày mai trong đám cô thôn nữ ấy, có người sẽ bước đi về hôn nhân để lại sau lưng những niềm vui, có chút tiếc nuối nào đó xen lẫn trong niềm hạnh phúc ấy. Mùa xuân trang trí cho cuộc đời, tạo ra quả ngọt cho tình yêu, mùa của niềm hạnh phúc rộn ràng.

“Âm nhạc tan chảy trên đỉnh núi,

Nhẹ nhàng như những lời của mây trời,

Trò chuyện lặng lẽ dưới bóng trúc,

Hiểu ra được ý vị và vẻ đẹp ngây thơ…”

Niềm đam mê cuộc sống hiện hữu trong những lời ca thơ đẹp, trong trẻo, trong sáng “âm nhạc tan chảy” trên núi cao, hoà vào cảnh vật, tiếng vang mãi mãi. Những âm thanh như đang theo nhịp thời gian, “nhẹ nhàng” “trò chuyện lặng lẽ” với nhau đầy ý nghĩa, gần gũi. Tiếng thơ khiến lòng người xao xuyến, lãng mạn đến kỳ lạ.

“Người xa quê hương gặp mùa xuân sang

Tim đong đầy nhớ về quê nhà

Người phụ nữ kia vẫn gánh đồng lúa

Dọc bên bờ sông, ánh nắng trắng bóng xạc”

Nếu ở đoạn thơ trước là hình ảnh của cỏ cây tươi xanh thì ở đây lại là hình ảnh ngược lại khi mùa xuân chín, không còn đẹp như khi mới bắt đầu, nó mang theo màu sắc của niềm tiếc nuối, màu sắc của cuộc sống nông thôn: “Dọc bên bờ sông, ánh nắng trắng bóng xạc”. Từ “chang chang” ở cuối câu thơ khiến cho cảm xúc trở nên phức tạp, như những suy tư, nỗi niềm nặng nề trong lòng một người phụ nữ:

“Năm nay, chị ấy vẫn phải gánh vác công việc trên vai

Dọc bên bờ sông, ánh nắng trắng bóng xạc”

Ngày xưa, khi tuổi xuân đang nồng nàn, cùng với tiếng hát của mùa xuân, bây giờ khi mùa xuân chín, rời xa những thời khắc xuân xanh, “chị ấy” đã trở thành một người phụ nữ mang theo nhiều trăn trở. Trách nhiệm của một người mẹ, người vợ nặng nề hơn, nhưng dù vất vả, khó khăn, vẻ đẹp vẫn tỏa sáng trong cảnh vật.

Bài thơ mang nét nhẹ nhàng, ngôn ngữ dù đơn giản nhưng được lựa chọn một cách tinh tế. Mỗi câu thơ như một dải trời đầy tình yêu thương, mang theo nỗi buồn và nhớ nhà trong lòng. Với ngôn ngữ chắt chiu cùng trái tim hồn hậu của thi sĩ, Hàn Mạc Tử đã viết nên một “mùa xuân chín” tròn đầy, tươi sáng và quý giá.

Đánh giá và phân tích Mùa Xuân Chín – mẫu 3

Trong không gian rộng lớn, cỏ vẫn luôn xanh tươi mãi. Hình ảnh của ‘sóng cỏ’ và ‘gợn tới trời’ gợi lên sự sống động của mùa xuân, khi cỏ xanh mơn mởn trước làn gió nhẹ nhàng của mùa xuân. Cảm giác này như một nét đẹp truyền thống của dân tộc, đẹp như ca dao, như lễ hội mùa xuân muôn thuở, được thể hiện qua những nét văn hóa đặc trưng như tiếng hát của những nàng xuân, của bao cô thôn nữ. Tâm hồn nhạy cảm của thi sĩ Hàn Mặc Tử bắt gặp vẻ đẹp ấy và thể hiện nó qua những câu thơ ngây ngất.

‘Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi, hổn hển như lời của nước mây. Thầm thì với ai ngồi dưới trúc, nghe ra ý vị và thơ ngây.’ Âm thanh của tiếng ca trong mùa xuân được mô tả như một phần của thiên nhiên, lưu luyến và thú vị. Sự phong phú của giai điệu và phức tạp của khúc hát đồng quê khiến cho người nghe cảm thấy sự quyến luyến và thân thương của mùa xuân.

Những tiếng hát của mùa xuân dân dã, tình tứ và đáng yêu, cùng với sắc xuân, hương xuân và tình xuân đang dần trở nên ‘chín’ trong lòng mọi người. Tuy nhiên, cũng có sự hẫng hụt, băn khoăn khi mùa xuân dần trôi qua và tuổi trẻ cũng dần phai nhạt. Hàn Mặc Tử như thấu hiểu điều này và thể hiện qua những dòng thơ sâu lắng.

‘Ngày mai trong đám xuân xanh ấy, có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi.’ Cảm giác của sự lẻ loi, buồn bã trước sự trôi qua của thời gian và mùa xuân được diễn tả qua những từ ngữ sâu lắng của thi sĩ.

‘Xuân đang tới nghĩa là xuân đương qua – Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già.’ Hai câu thơ ngắn gọn nhưng chứa đựng một thông điệp sâu sắc về sự trôi qua của thời gian và mùa xuân.

Hàn Mặc Tử là người lữ khách trải qua mùa xuân và cảm nhận sự đổi thay của nó. Tác phẩm thơ của ông kết hợp giữa nét truyền thống và hiện đại, tạo ra một vẻ đẹp đặc biệt.

Mùa xuân không chỉ là sự bừng nở của thiên nhiên mà còn là thời gian để ta suy ngẫm về sự trôi qua của cuộc sống. Hàn Mặc Tử đã lồng ghép những suy tư ấy vào những dòng thơ trữ tình và sâu lắng.

‘Gặp lúc mùa xuân chín ấy mà thổn thức: Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng. Chị ấy năm nay vẫn mang gánh thóc. Dọc bờ sông trắng nắng chang chang.’ Hình ảnh của mùa xuân đang đến khiến lòng người xao xuyến và nhớ nhung quê nhà.

Nhà thơ nhớ về một thời quê hương với sự bâng khuâng và hẫng hụt. Mỗi kỷ niệm đều gợi lên cảm xúc sâu thẳm trong lòng. Mùa xuân là thời điểm của sự trở lại, nhưng cũng là thời gian của những nỗi buồn.

‘Mùa xuân chín’ là một bức tranh tươi sáng và buồn bã của mùa xuân. Hàn Mặc Tử đã vẽ lên một bức tranh tươi đẹp nhưng cũng rất bi thương về mùa xuân và tình yêu quê hương.

Mùa xuân là thời điểm của sự sống mới và hy vọng. Bài thơ ‘Mùa xuân chín’ là một minh chứng cho sức sống và sự thay đổi của thi sĩ Hàn Mặc Tử.

Thơ của Hàn Mặc Tử luôn mang một sự đau thương và hy vọng trong cuộc sống. ‘Mùa xuân chín’ là một trong những bài thơ tươi sáng nhất của ông, thể hiện tình yêu và khát khao sống của một con người.

‘Mùa xuân chín’ mang đến cảm giác mới lạ và sự sống động của mùa xuân. Hàn Mặc Tử đã tạo ra một bức tranh mùa xuân đầy sức sống và tràn đầy niềm vui.

Mạch thơ của Hàn Mặc Tử luôn thấy sự thay đổi và đa dạng của cuộc sống. ‘Mùa xuân chín’ là một minh chứng cho sự đa dạng và sức sống của thơ của ông.

Mở đầu bài thơ là một khung cảnh thiên nhiên mới mẻ, rạng ngời dưới ánh nắng mùa xuân:

‘Trong làn nắng ấm, khói mơ dần tan

Nhà tranh lấp lánh dưới ánh vàng

Gió nhè nhẹ đùa giỡn váy áo biếc

Trên giàn hoa. Bóng xuân qua.

Thiên nhiên mùa xuân hiện lên rực rỡ dưới ánh nắng, trong làn sương mờ mịt, tạo nên một khung cảnh như trong tranh. Sự kết hợp của ‘khói mơ tan’ tạo ra cảm giác như làn khói sương đang tan chảy dưới ánh nắng, tạo ra một bức tranh tươi đẹp như mơ. Màu vàng của nắng rực rỡ hơn với hình ảnh ‘nhà tranh lấp lánh’. Trong không gian yên bình đó, nhà thơ đột nhiên nghe thấy tiếng ‘gió nhè nhẹ’ đùa giỡn với váy áo màu biếc, tạo ra một không khí sôi động, vui tươi, tràn ngập hứng khởi. Từ nhà tranh, nhà thơ chuyển ánh mắt lên ‘gian hoa’. Dấu chấm giữa câu thơ làm như một khoảnh khắc đột ngột, nhấn mạnh sự hiện diện của ‘bóng xuân qua’. Mùa xuân bắt đầu hiện hình, màu sắc xuân rực rỡ trong tầm nhìn.

Từ góc nhìn gần, Hàn Mặc Tử mở rộng tầm mắt ra xa với cái nhìn toàn cảnh. Không gian mùa xuân mở rộng với ‘sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời’. ‘Sóng’ kết hợp với bãi cỏ xanh mướt khiến bạn đọc cảm nhận từng lớp cỏ liên tiếp, trải dài vô tận, sự sống dường như đang tràn đầy mạnh mẽ. Ý thơ khiến ta nhớ đến một câu trong ‘Cảnh ngày xuân’ của Nguyễn Du: ‘Cỏ non xanh tận chân trời’. Đây là cách mô tả khéo léo của Hàn Mặc Tử khi tạo ra ‘sóng cỏ’ gợi lên sự uyển chuyển, nhẹ nhàng mà mượt mà của những lớp cỏ xuân. Có lẽ sức sống cuồn cuộn từ bên trong, tạo ra những đợt sóng và kết lại tạo nên một ‘mùa xuân chín’!

Từ cảnh thu, Hàn Mặc Tử đột ngột chuyển sang tình thu, khung cảnh bên ngoài trở lại với khung cảnh tâm canh. Có lẽ, nhà thơ sử dụng cảnh mở đầu để nói về tình, tả tình? Một tình cảm sâu lắng, chân thành với con người và cuộc đời. Hòa cùng với không khí vui tươi của mùa xuân, ta cảm nhận được cảm xúc trong lòng người:

‘Bao cô thôn nữ hát trên đồi

Ngày mai trong đám xuân xanh ấy

Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi”

‘Xuân xanh’ là một ẩn dụ để chỉ những cô gái trẻ trung, xinh đẹp. Tuổi xuân của họ tươi đẹp, rực rỡ như mùa xuân của đất trời. Chính vì thế, niềm vui của những cô thôn nữ hoà trong không khí mùa xuân chính là tình xuân. Ánh nắng chắc chắn là đôi má ửng hồng của các cô gái khi ‘theo chồng bỏ cuộc chơi’. Niềm vui của họ là tình yêu đôi lứa, là sự kết nối trong hôn nhân đến bạc đầu. ‘Mùa xuân chín’ không chỉ là thời tiết xuân mà còn là tình xuân. Chữ ‘chín’ trong tình yêu chính là kết quả nên vợ nên chồng. Niềm hạnh phúc của những cô gái được thể hiện trong ‘tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi’. Hàn Mặc Tử đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác thật tài tình. ‘Tiếng ca’ ban đầu được cảm nhận bằng thính giác, nay được hiện hóa trong trạng thái ‘vắt vẻo’, cảm nhận bằng thị giác. Tiếng hát ca say sưa của con người như có sức hút, cao vút đến lưng chừng núi thể hiện sự yêu đời mãnh liệt. Dư âm của tiếng hát dường như còn ngập ngừng mà ‘vắt vẻo lưng chừng núi’ tạo nên một âm thanh vang vọng khắp không gian. Xuân tình từ thiên nhiên lan truyền, giao ướng với xuân tình trong lòng người, cả hai nhập vào nhau trong cùng một tiếng hát. Là tiếng hát của những cô thôn nữ mà cũng là tiếng hát của nước mây. Thiên nhiên và con người đồng ca, đồng vọng hay tiếng hát trong lòng thiên nhiên đang cất lên qua lời hát của con người.’

Từ âm thanh cao vút, hỗn hợp như lời của nước mây bỗng trở thành những lời thầm thì nhỏ bé:

‘Thầm thì với ai ngồi dưới trúc

Mùa Xuân Chín, một bài thơ của Hàn Mạc Tử, phản ánh sự rực rỡ của mùa xuân, đầy cảm xúc và ý nghĩa. Không chỉ là mùa xuân chín trên cây cỏ, mà còn là lòng người đầy chín muối với khát khao kết nối với cuộc sống, yêu thương và nhớ nhung. Điều đặc biệt của ‘Mùa Xuân Chín’ là sự kết hợp tài tình giữa cái cổ điển và cái hiện đại của Hàn Mạc Tử. Thơ của ông mang nét cổ điển trang nghiêm, phảng phất hương vị thời Đường với thể thơ bảy chữ, ngắt nhiệt 4/3. Điểm đặc biệt là cách kết vần cuối trong những câu thơ 1, 2, 4, cũng như việc sử dụng ngắt nhiệt 4/3, đều là đặc trưng của thơ Đường. Đây là những yếu tố làm nên tính cổ điển của thơ Hàn Mạc Tử. Về mặt hiện đại, ông đã phản ánh nhiều tác động của chủ nghĩa tượng trưng và siêu thực. Thơ siêu thực thường tạo ra những hình ảnh huyền bí, kỳ bí, thậm chí là ma mị bằng cách kết hợp từ ngữ mới, độc đáo thông qua nghệ thuật ẩn dụ và chuyển đổi cảm giác. Nét bút của Hàn Mạc Tử đã thể hiện sự điêu luyện trong việc sáng tạo những kết hợp từ ngữ mới: mùa xuân chín, bóng xuân sang, đám xuân xanh, tiếng ca vắt ve và thơ ngây. Tất cả những điều không thể cảm nhận bằng mắt thường đã được ông tài tình hoá một cách độc đáo. Những nét thơ mới lạ tạo nên tính hiện đại đặc biệt trong thơ Hàn Mạc Tử. Phù hợp với sự phát triển của Thơ mới, thơ Hàn Mạc Tử đã tạo ra một phong cách riêng – tinh tế, độc đáo và mới lạ.

Thơ của Hàn Mạc Tử tiết lộ một thế giới tâm hồn mãnh liệt với các cung bậc cảm xúc được thể hiện một cách sâu sắc. Trong ‘Mùa Xuân Chín’, chúng ta thấy Hàn Mạc Tử đã vẽ lên bức tranh mùa xuân tươi đẹp, rực rỡ, tràn ngập sức sống để phản ánh cái ‘xuân chín’ trong lòng người. ‘Chín’ trong tình yêu thương, ‘chín’ trong nỗi nhớ về con người, cuộc sống và quê hương. Điểm nổi bật nhất là khao khát giao thoa với cuộc sống, trân trọng vẻ đẹp và ý thức bảo vệ những giá trị tinh túy, đẹp đẽ của cuộc sống. Khao khát ấy trở thành sợi chỉ xuyên suốt trong những tác phẩm của Hàn Mạc Tử, tạo ra giá trị nhân văn sâu sắc, để tư duy trong những dòng thơ vẫn vang mãi cho đến hiện tại.

Phân tích và đánh giá về ‘Mùa Xuân Chín’ – mẫu số 5.

Hàn Mạc Tử, một nhà thơ đã có nhiều tác phẩm xuất sắc, viết về mùa thu, và một trong những tác phẩm nổi bật nhất của ông là bài thơ Mùa Xuân Chín, tác phẩm này để lại nhiều cảm xúc cho tác giả.

Mùa Xuân Chín là một tác phẩm viết về mùa thu với những độ chín của mùa màng, hình ảnh đó thể hiện một tình cảm đặc biệt mà người đọc đã hướng tới, đầu tiên tác giả đã sử dụng những hình ảnh để báo hiệu rằng mùa thu đã tới, hình ảnh những cơn sướng mùa, những tiếng gió sột soạt trên mái nhà, và những giàn thiên lý đang báo hiệu mùa thu đã sang, những hình ảnh đó đã mang lại cho người đọc một cái nhìn sâu sắc và có nhiều ấn tượng nhất cho người đọc:

Trong ánh nắng đỏ rực phai

Những mái nhà tranh bắt đầu đổi màu

Gió nhẹ nhàng trêu tà áo xanh biếc,

Trên giàn thiên lý, chào đón bước sang của mùa xuân

Những tia nắng dần trở nên nhẹ nhàng khi mùa thu đang tới, hình ảnh của ánh nắng không còn gay gắt như mùa hè mới, trên những mái nhà đã chuyển sang màu vàng, ở đây màu vàng có thể hiểu là sắc màu của những chiếc lá vàng rơi, và những cơn gió nhẹ nhàng thổi qua mái nhà, tạo nên những hình ảnh đầy sáng tạo, khơi gợi cho người đọc một cái nhìn sâu sắc, rằng mùa thu đã đến:

Cỏ xanh tươi mơn mởn gợn sóng tới trời

Ba cô gái thôn quê hát lên trên đồi

Ngày mai, trong đám cây xanh ấy

Có người theo chồng, từ bỏ cuộc vui

Những hình ảnh của bầu trời xanh dần gợi lại hình ảnh tươi đẹp, lan tỏa và trùm lên không gian ở đây, thể hiện một tình cảm đặc biệt, với cánh đồng hát vang và đám xuân xanh. Ở đây, những người con gái sắp bước vào tuổi xuân, sẽ bỏ lại những người yêu thương để lấy chồng. Hình ảnh của bầu trời xanh, với những cô gái hát trên đồi, biểu hiện cho mùa xuân chín, với sự nở rộ, sự sống đang tràn đầy. Tất cả mọi vật đều nảy nở và sinh sôi:

Tiếng ca vang vọng giữa ngọn núi

Khơi dậy như lời của mây trời

Thầm thì dưới gốc trúc với ai

Nghe được ý vị và thơ ngây.

Trên núi, tiếng ca của những cô gái thôn quê, trong không gian rừng núi, như hòa vào âm vang của tự nhiên, tạo ra một cảm giác thư thái và hòa mình với thiên nhiên. Hình ảnh của những người đứng trên núi, với âm vang của cuộc sống, thầm thì dưới bóng trúc, thể hiện một cảm giác thi vị và hòa nhập với thiên nhiên, mang lại cảm xúc sâu lắng và nỗi nhớ đong đầy:

Hình ảnh của những cô gái thôn quê, kết hợp với tiếng ca trong âm vang của cuộc sống, tạo ra một cảm giác mới về mùa thu, với sự tươi tắn và đầy sức sống trong thiên nhiên. Tình cảm đặc biệt sâu sắc, với những ý thơ nhẹ nhàng và uyển chuyển:

Khách từ xa đến khi mùa xuân chín

Cảnh trí bâng khuâng gợi nhớ về quê hương

Chị ấy năm nay vẫn gánh bao lúa

Dọc bờ sông, ánh nắng trắng xóa ngợp.

Và hình ảnh của người khách trầm lặng trước vẻ đẹp của mùa xuân, họ trầm lặng trước những cảnh sắc tươi đẹp. Hình ảnh đó khơi gợi một nỗi nhớ sâu sắc, tình cảm đặc biệt và vô cùng sâu sắc đang hiện hữu trong tác phẩm. Những hình ảnh này để lại cho người khách một cảm giác quen thuộc, hình ảnh của chị ấy năm nay vẫn gánh lúa, và bên bờ sông, ánh nắng vẫn rực rỡ soi vào tâm trí của con người, những hình ảnh này khiến con người trải qua biết bao cảm xúc trước vẻ đẹp của thiên nhiên. Một mùa xuân đang nở rộ thể hiện tình cảm sâu sắc mà tác giả muốn truyền đạt, và nó đang gợi lại trong tâm trí của người đọc một cái nhìn mới mẻ và ý nghĩa nhất.

Bài thơ đã đánh thức nhiều cảm xúc sâu sắc nhất trong người đọc, hình ảnh của một mùa xuân đang nở rộ, thể hiện tình cảm sâu sắc mà tác giả muốn truyền đạt. Hình ảnh này dần lấp đầy tâm trí của người đọc, mang lại một cái nhìn mới mẻ và ý nghĩa nhất. Mùa xuân hòa nhập vào tâm trạng của người đọc và những người khách đang đến, tạo ra một cảm xúc mãnh liệt và đẩy họ đến những cảm giác lưu luyến trước vẻ đẹp của thiên nhiên.

Phân tích, đánh giá Mùa xuân chín – mẫu 6

Hàn Mặc Tử, với cuộc sống ngắn ngủi, tâm hồn phong phú, mong manh đã để lại cho thế giới những bài thơ đặc biệt. “Mùa xuân chín” là một trong số đó. Trong không gian của mùa xuân đang chớm nở, tác giả lưu lại cảm xúc của mình: nhớ nhà, nhớ quê… và một cái gì đó rất mơ hồ, khiến ta đầy suy tư. “Mùa xuân chín” là một góc riêng của cảm xúc đang nở rộ trong tâm trí nhà thơ, cũng như trong tâm trí của người đọc.

Đọc tựa đề bài thơ, ta gần như đã cảm nhận được cái “ngon lành”, cái đỉnh cao của “Mùa xuân chín”. Nếu có “xuân chín” thì chắc chắn cũng có “xuân xanh” và “xuân già”. Nằm ở ranh giới giữa sự trẻ trung và sự già nua, “Mùa xuân chín” trở nên quý giá nhưng cũng mong manh vô cùng. Để lòng ta say mê trong khoảnh khắc hoàn hảo nhất của vũ trụ thì còn gì bằng!

“Dưới ánh nắng ửng rực: khói mơ bay,
Nhà tranh lấm tấm vàng lấp lánh”

“Nắng ửng”. Từ “ửng” mang một ý nghĩa đặc biệt. Ta có thể liên tưởng ngay đến cái “chín ửng” của quả đào, quả hồng, cái “ươm ửng” nhẹ nhàng của đôi má của cô gái trong tiết xuân se lạnh. Tương tự, xuân đang “chín” trong ánh nắng. Dấu hai chấm sau đó nhắc nhở ta về cái gì sẽ diễn ra tự nhiên như quả chín sẽ chuyển từ xanh sang đỏ. Những hơi khói sương tan trong ánh nắng, lượn lờ, nhẹ nhàng đưa tâm hồn thi sĩ lên cao, khỏi mặt đất, khỏi hiện thực, bước vào thế giới “mơ mộng”. “Nhà tranh lấm tấm vàng lấp lánh”. Những “tấm vàng” đó có thể là ánh nắng hoặc chính là những ảo ảnh trong đôi mắt của người say mê. Không phải là say “quên hết thế gian”, sự say của nhà thơ là những giây phút đắm chìm, mê đắm, tập trung, cả âm thanh, cả hình ảnh, màu sắc đều hòa quyện thành một: khói bay, nhà tranh lấm vàng, gió nhẹ, thiên lí. Đó là “bóng xuân”. Chỉ là “bóng”, mơ hồ, huyền ảo, mùa xuân của cô gái xinh đẹp, đẹp như trong cơn mơ, đẹp như quả chín, hoàn hảo lướt qua trong tâm hồn nhà thơ.

“Bao cô thôn nữ hát trên đồi”. Tiếng hát của những cô gái đánh thức sự nhớ nhà, đưa nhà thơ quay lại thực tại. Toàn bộ bài thơ chứa đựng tâm trạng tiếc nuối, đầy ngậm ngùi:

Ngày mai trong đám xuân tươi đẹp đó Sẽ có người bỏ hết niềm vui…

Nhà thơ suy tưởng về ngày mai, cảnh vật, con người sẽ thay đổi, những cô gái sẽ không còn vô tư, hồn nhiên hát ca cùng mùa xuân, giống như mùa xuân, mọi thứ đều tạm thời. Tâm trạng đa cảm đó, không thể không gợi lên cảm xúc. “Đám xuân tươi đẹp đó” Mùa xuân tươi đẹp của cuộc đời con người, cũng là mùa xuân tươi đẹp của thiên nhiên mà nhà thơ vẽ ra trước mắt người đọc, khiến chúng ta không thể không suy tư. Vậy thì hãy thưởng thức hết những khoảnh khắc tuyệt vời ấy.

Âm nhạc vang vọng ngàn núi

Đong đưa như lời hát của dòng nước…

Nhìn nhận tâm hồn với người ngồi dưới bóng trúc

Thấu hiểu vị ngọt và thanh thoát của thơ ca…

Tưởng tượng của tác giả đạt đến đỉnh cao, tiếng hát rộn ràng như “đong đưa như lời hát của dòng nước”, nhưng vẫn “nhìn nhận tâm hồn với người ngồi dưới bóng trúc”. Từ “người” đa nghĩa ấy cho thấy nhạc cảm sâu sắc trong lòng nhà thơ. Tiếng hát vang vọng mọi nơi, nhưng thi sĩ “thu” lại chỉ dành riêng cho “người”. Thực ra, đó là chính mình, khiến mình tự hỏi:

Thấu hiểu vị ngọt và thanh thoát của thơ ca

Có ai thấu hiểu hết vẻ đẹp của thế giới như vậy không! Nghĩ đến thế giới, về sự thay đổi của nó, về mùa xuân, tác giả lại suy ngẫm về bản thân Một cuộc gặp gỡ khác trong mùa xuân chín

Thì ra mình chỉ là một người xa lạ, bơ vơ, cô đơn gặp “Mùa xuân chín” mới có được khoảnh khắc ấm lòng. Hàn Mặc Tử nhớ về làng xưa, trí nhớ hoang mang nhớ làng.”

Cái “nhớ” bất ngờ, dồn dập, tên tác giả, cái tên mà gia đình, người thân gọi đối với Hàn Mặc Tử thân thương biết bao, thân quen biết bao. Ngẫu nhiên, đó cũng là một từ phù hợp với nỗi nhớ của tác giả. Nhớ về quê xưa, hình ảnh đầu tiên đến với cái “nhớ” của tác giả là hình ảnh của người con gái. “Chị ấy” là chị ruột, chị họ hàng hay có thể là một người quen hay là… ? Ta không thể biết được. Nhưng ta hiểu được rằng tác giả đã dành sẵn một tình cảm rất trân trọng, rất tha thiết cho người con gái ấy. Tại sao hình ảnh đầu tiên mà tác giả nhớ không phải là cha mẹ, anh em, mái nhà xưa ‘! Bởi vì đây là cái “nhớ”, điều mà ý thức không kiểm soát được mà là của trái tim đang dồn dập, nóng bỏng vì nỗi nhớ điều khiển. Những từ, tiếng vần liền “trắng, nắng”, “chang chang” tạo cho người đọc cảm giác rõ ràng về một bờ sông cát trắng, nắng chói rất thật rất rõ ràng tạo thành hình ảnh con người thật đẹp.

Chị ấy năm nay vẫn gánh thóc

Dọc bờ sông cát trắng nắng chang chang

Mùa xuân luôn là nguồn cảm hứng của nhiều thi sĩ. Thế nhưng trong “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử vẫn rất đặc biệt, vẫn rất sâu sắc, không chỉ có “Mùa xuân chín” mà còn “chín” cả lòng người thi sĩ, “chín” cả nỗi nhớ làng, nhớ người xưa trong thơ Hàn Mặc Tử.

Bài thơ đầy cảm xúc khiến lòng người rưng rức. Với tâm hồn lãng mạn cùng những lời thơ trữ tình đặc biệt, Hàn Mặc Tử đã để lại cho đời một bức tranh xuân, một hình ảnh xuân một nét xuân đẹp dịu dàng. Người đã đi xa nhưng tình cảm vẫn mãi vương vấn. Bài thơ ấy cùng với cái danh Hàn Mặc Tử vẫn trường tồn mãi.

Phân tích, đánh giá Mùa xuân chín – mẫu 7

Tạo hóa đã ban tặng cho chúng ta bốn mùa của thiên nhiên, mỗi mùa đều mang đến một cảm xúc, một vẻ đẹp riêng biệt. Mùa hạ với vẻ đẹp rực rỡ, sôi động. Mùa thu mang đến sự dịu dàng, thơ mộng, làm cho lòng người cảm thấy buồn bã. Mùa đông dù lạnh lẽo nhưng lại giúp chúng ta gần kề nhau hơn bên bếp lửa ấm áp. Nhưng có lẽ mùa xuân là mùa được mong chờ nhất trong chuỗi năm vì nó mang đến sự sống động, tràn ngập sức sống cho thế giới và là thời điểm bắt đầu của một năm mới. Chính vì thế, mùa xuân đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận cho văn chương. Trong số những tác phẩm viết về mùa xuân, thật thiếu sót lớn nếu không nhắc đến bài thơ “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử. Tác phẩm đã góp phần làm nên tên tuổi của Hàn Mặc Tử, được xếp trong phần Hương thơm của tập “Đau thương”, được sáng tác trước năm 1937 của tác giả.

Ngay từ tiêu đề, Mùa xuân chín đã khiến người đọc tò mò về “mùa xuân” mà Hàn Mặc Tử mô tả như thế nào. Chúng ta thường thấy từ “chín” để chỉ một loại quả đang ở độ thơm ngon nhất. Mùa xuân mà Hàn Mặc Tử gửi gắm qua tác phẩm cũng mang ý nghĩa như vậy. Đó là một mùa xuân đang ở thời kỳ đẹp nhất và tràn ngập sức sống nhất. Vậy mùa xuân chín đẹp như thế nào? Hàn Mặc Tử đã trả lời câu hỏi này qua hai khổ thơ đầu tiên của tác phẩm:

“Trong làn nắng ửng khói mơ tan

Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng

Sột soạt gió trêu tà áo biếc

Trên giàn thiên lí bóng xuân sang.

Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời

Trên đồi, người con gái làng hát vang

Mai sau, trong những ngày xuân xanh ấy,

Có người theo chồng, rời xa cuộc vui…”

Hàn Mặc Tử đã mở đầu bức tranh mùa xuân yên bình ở quê hương. Ánh nắng nhẹ nhàng, làn sương mơ màng tan chảy dưới ánh nắng, tạo nên khung cảnh thơ mộng. Những tia nắng rực rỡ chiếu sáng những mái nhà tranh, làm cho không gian trở nên ấm áp và tươi mới. Mùa xuân đẹp nhất hiện lên qua những cơn gió nhẹ nhàng, như làm say đắm tà áo xanh biếc.

Khi mùa xuân về, cây cỏ bắt đầu mọc nảy lộc khắp nơi, tạo nên một bức tranh tươi sắc như tranh vẽ. Sử dụng ngôn từ một cách khéo léo, tác giả đã tạo ra hình ảnh của cỏ cây như những đợt sóng xanh mướt, cảm giác như làm cho cảnh vật sống động hơn. Mùa xuân chín cũng được thể hiện qua hình ảnh của những cô gái làng hát vang, là một phần không thể thiếu trong văn hóa dân gian.

Tiếp theo là bức tranh mùa xuân vui tươi của con người:

Niềm vui chào đón mùa xuân được thể hiện rõ trong đoạn thơ thứ ba:

“Tiếng hát vang rền dưới chân núi

Mênh mông như dòng nước mây lơ lửng

Thầm thì với ai ngồi dưới bóng trúc

Âm thanh phản ánh sự dịu dàng và tinh khôi.”

Những tiếng ca chào đón mùa xuân từ “trên đồi” đã bay lên và lan tỏa khắp nơi, “rền dưới chân núi”. Tiếng hát kết hợp với thiên nhiên được so sánh như “dòng nước mây lơ lửng”, một hình ảnh mênh mông và thanh nhã. Tiếng hát không chỉ đơn thuần qua âm nhạc mà còn thông qua cả thị giác, chúng được miêu tả một cách tinh tế và ấn tượng. Những tiếng ca đang ở nhịp độ cao lại bất ngờ trở nên “thầm thì” với “ai đó”. Từ “ai đó” tạo ra một không gian bí ẩn và lãng mạn trong thơ của Hàn Mặc Tử. Tiếng hát như là “thầm thì” truyền đạt những ý vị và cảm xúc sâu thẳm. Đây là những dòng thơ lãng mạn, tinh khôi phản ánh tinh thần của mùa xuân chín.

Cuối bài thơ, Hàn Mặc Tử biến thành một “du khách” để trải nghiệm tình yêu của “mùa xuân chín” một cách rõ ràng nhất:

“Du khách từ xa đến với mùa xuân chín

Kỷ niệm về quê nhà tràn về lòng

Đàn bà kia vẫn còn gánh thóc đầu mùa

Bên bờ sông nắng long lanh rất dịu dàng.”

Một khách du lịch bất ngờ gặp “mùa xuân chín”, mang theo cảm giác tiếc nuối, nhớ về quê hương trong cảnh trí bâng khuâng. Và trong mùa xuân ấy, anh ta nhớ cả người chị của mình. Không biết “chị ấy” năm nay ra sao? liệu có còn gánh thóc như mọi năm không? Thực ra, ở đây Hàn Mặc Tử đã sử dụng từ “chị ấy” một cách phóng túng. Chị ấy có thể là chị của khách du lịch, nhưng cũng là những phụ nữ nông dân ở quê nhà, vẫn miệt mài làm việc vào đầu mùa xuân, dưới ánh nắng dịu dàng bên bờ sông. Một cảnh tượng đầy ấm áp, đánh dấu sự khởi đầu của một năm mới đầy hứa hẹn, và mùa xuân ấy càng tươi đẹp hơn trong kí ức của khách du lịch “rời quê”.

Tác phẩm “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử là một biểu hiện tinh tế của sự cảm nhận. Mùa xuân chín mà Hàn Mặc Tử mang lại cho người đọc là một mùa xuân ở đẳng cấp đẹp nhất, với đủ các tình huống. Thỉnh thoảng nhẹ nhàng, dịu dàng, thỉnh thoảng nồng nhiệt, rực rỡ, và cũng mang theo cảm giác tiếc nuối. Qua tác phẩm, tác giả cũng đã truyền tải tình yêu quê hương, đất nước qua từng chi tiết cảnh xuân cực kỳ chân thực. Và cùng với đó là tình yêu và tôn trọng con người, những người Việt Nam đầy năng lượng và chăm chỉ lao động vì Tổ quốc, giống như “mùa xuân chín” ấy. Chính vì thế, tác phẩm “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử vẫn mang lại giá trị cho đến ngày nay.

Phân tích, đánh giá về tác phẩm Mùa xuân chín – mẫu 8

Hàn Mặc Tử là một trong những biểu tượng của “phong trào Thơ mới” Việt Nam, nhà phê bình Hoài Thanh đã miêu tả ông là “Một nguồn thơ phong phú và độc đáo”. Một số tác phẩm tiêu biểu của ông bao gồm tập thơ “Gái quê”, “Thơ Điên”, “Chơi giữa mùa trăng”,… Đặc biệt, tác phẩm “Mùa xuân chín” đã đem đến cho độc giả những trải nghiệm sâu sắc về cảnh vật mùa xuân tươi đẹp. Qua đó, nhà thơ đã thể hiện tình yêu thiên nhiên, tình yêu con người và mong muốn sâu sắc về cuộc sống.

Ngay từ tiêu đề, tác giả đã vẽ lên bức tranh mùa xuân đầy sức sống. Kết hợp từ ‘chín’ với ‘mùa xuân’ tạo nên không gian tràn đầy sinh khí. Tiêu đề khơi gợi sự mềm mại, tươi mới của mùa xuân. Cảm xúc trong tác phẩm chuyển từ bề ngoại đến bên trong. Trước cảnh xuân tươi rực, nhà thơ tỏ ra yêu thiên nhiên và nhớ quê hương. Dòng thơ chuyển đổi theo tâm trạng của nhân vật, từ tươi vui, hân hoan đến bâng khuâng, suy tư.

Văn bản mở đầu là bức tranh của một làng quê yên bình, thơ mộng. Thiên nhiên được mô tả với những từ như ‘làn nắng ửng’, ‘khói mơ tan’, ‘bóng xuân sang’. Hình ảnh ‘làn nắng ửng’ gợi nhớ màu vàng nhạt của ánh nắng buổi sáng. ‘Khói mơ tan’ có thể là khói từ nhà vào buổi sớm hoặc là sương khói mơ màng của một ngày mới. Hai hình ảnh này tạo ra cảm giác của sương khói tan biến khi mặt trời mọc. Mùa xuân lan tỏa qua các góc mái nhà và giàn tre. Câu thơ ‘Gió trêu áo biếc’ với từ láy ‘sột soạt’ diễn tả âm thanh và sự nhẹ nhàng, trêu đùa của gió với áo ánh xanh. Biện pháp tu từ ẩn dụ được sử dụng trong câu ‘Trên giàn tre. Bóng xuân sang’ tạo ra hình ảnh sinh động của mùa xuân. Câu thơ được ngắt bởi dấu chấm để nhấn mạnh sự hiện diện của mùa xuân. Tác giả tạo ra các cặp vần ‘vàng’, ‘sang’, ‘trời’, ‘chơi’ để tạo ra một không gian rộng lớn. Mùa xuân làm cho cỏ cây, đất trời và con người như hòa quyện vào nhau: ‘Sóng cỏ xanh trào tới trời’

Câu thơ không chỉ mô tả mật độ cỏ mà còn cho thấy sự di chuyển của gió. Trên hình nền của thiên nhiên tươi đẹp đó là sự hiện diện của con người:

“Nhiều cô gái làng hát trên đồi

Ngày mai trong đám xuân xanh ấy

Có người theo chồng, bỏ cuộc chơi”.

Và:

“Tiếng hát vang vọng trên dốc non

Huyền bí như tiếng lời của mây trời

Nói lén với ai ngồi dưới bóng trúc.

Nghe được sự ý vị và hồn ngây ngất”

Đứng nổi bật giữa cảnh thiên nhiên là con người đang bước vào “tuổi xuân”. Hình ảnh “Nhiều cô gái làng hát trên đồi” thể hiện sự hòa mình của con người với thiên nhiên. Mùa xuân ấm áp, tràn đầy sức sống khiến con người cảm thấy phấn khích, hạnh phúc. Câu thơ “- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,/ Có người theo chồng, bỏ cuộc vui” giống như một lời nói trực tiếp. Ý thơ bộc lộ chút gì đó tiếc nuối của người nhìn thấy cảnh “đám xuân xanh”, hoặc cũng có thể là tiếc nuối của vị “khách xa”. Tiếng hát của các cô gái được miêu tả qua từ ngữ “huyền bí”, “nói lén” khiến người đọc cảm nhận được sự chậm rãi trong giọng hát, lúc thì quyến rũ, khi thì sâu lắng, đầy cảm xúc. Tiếng hát như nhịp đập của thời gian đầy ý vị.

“Người xa quê, gặp mùa xuân chín

Hồn chợt nhớ về làng quê yên bình

Chị ấy, năm nay vẫn mang gánh thóc

Dọc bên sông, nắng trắng chang chang?”

Khác với ba khổ thơ đầu, khổ thơ cuối có sự lắng xuống trong tâm trạng nhân vật trữ tình. “Khách xa” có thể hiểu là khách từ xa đến thăm làng vào “mùa xuân chín”, hoặc “khách xa” ở đây có thể là nhân vật trữ tình. Điều này phản ánh hoàn cảnh của Hàn Mặc Tử, ông cho rằng bản thân giờ chỉ là một người “khách xa” với quê hương. Người khách gặp đúng lúc mùa xuân chín mà lòng nhớ về quê nhà. Câu thơ” – Chị ấy, năm nay vẫn mang gánh thóc/ Dọc bên sông, nắng trắng chang chang” với sự thay đổi trong cách ngắt nhịp, nhịp thơ từ 2/2/3/ sang 4/3 và dấu gạch ngang ở đầu khiến câu thơ trở thành lời bộc lộ cảm xúc trực tiếp của nhân vật trữ tình. Người khách xa tự hỏi lòng mình rằng liệu năm nay chị ấy vẫn mang gánh thóc bên bờ sông không. Câu thơ vừa diễn tả hành động mang gánh thóc, vừa gợi ra không gian mùa hè “nắng trắng chang chang”.

Cách gieo vần chân “làng” – “chang” khiến dòng cảm xúc của nhân vật trữ tình như được kéo dài ra. Khổ thơ cuối đã thể hiện nỗi nhớ, khao khát giao cảm mãnh liệt với cuộc sống của nhà thơ Hàn Mặc Tử.

Cùng viết về đề tài mùa xuân, nhưng tác phẩm của Nguyễn Bính và Hàn Mặc Tử lại có những nét độc đáo riêng. Nếu Nguyễn Bính khắc họa bức tranh mùa xuân tươi tắn, hồn hậu để thể hiện tình cảm với người con gái thì Hàn Mặc Tử lại miêu tả mùa xuân tươi đẹp nhưng tràn đầy sự tiếc nuối. Cả hai nhà thơ đều sử dụng hình ảnh thơ gắn liền với những vùng quê. Điều nổi bật của “Mùa xuân chín” là cách sử dụng ngôn từ sống động khiến người đọc hình dung mùa xuân ở trạng thái tròn đầy nhất.

Bài thơ “Mùa xuân chín” đã khắc họa bức tranh mùa xuân tươi đẹp tràn đầy sức sống. Bức tranh ấy được gợi lên với đầy đủ màu sắc, đường nét, âm thanh của thiên nhiên và con người. Biện pháp nghệ thuật đảo ngữ, so sánh, ẩn dụ, nhân hóa cũng góp phần tạo nên thành công cho tác phẩm. Bài thơ thể hiện nỗi khát khao giao cảm với cuộc sống của một con người xa quê và đang bị bệnh tật ám ảnh.

Phân tích, đánh giá Mùa xuân chín – mẫu 9

Hàn Mặc Tử được xem là một nhà thơ tiên phong trong các phong trào thơ mới. Tác phẩm của ông thể hiện sự yêu thiên nhiên, cuộc sống và con người một cách mãnh liệt. Trong số các tác phẩm nổi bật của ông, không thể không kể đến bài thơ “Mùa xuân chín” – một tác phẩm gợi lại nhiều cảm xúc cho độc giả.

Mùa xuân là thời điểm mà hoa nở rộ khắp nơi, vẻ đẹp của vùng quê được tô điểm bởi sắc màu tươi tắn. Bài thơ “Mùa xuân chín” được sáng tác vào năm 1973, trong giai đoạn đầu khi nhà thơ đang ốm đau và được công bố trong tập Nắng.

Hình ảnh mùa xuân tươi đẹp và hơi thở của mùa xuân được thể hiện sâu sắc qua từng câu thơ của Hàn Mặc Tử. Mùa xuân trở về, mang theo những tia nắng ấm đầu tiên sau một mùa đông lạnh giá:

‘Trong làn nắng ửng khói mơ tan,

Ngôi nhà tranh mộc mạc lấm tấm vàng.

Gió trêu tà, áo biếc mềm mại,

Trên giàn tre, bóng xuân đong đầy.’

 Nắng xuân không giống như ánh nắng hàng ngày. Đó là một loại ‘ánh nắng’ bởi vì nó mang ánh sáng nhẹ nhàng, ấm áp. Từ từ ‘làn’ khiến chúng ta cảm nhận được hơi thở và ánh sáng của nắng như một “tảng” mỏng manh, mềm mại lan tỏa trong thơ và trong không gian. Mặt trời lại “chiếu sáng” qua “khói mơ”. Khung cảnh trở nên dịu dàng, đẹp đẽ và lãng mạn. Bút pháp của nhà thơ vẫn duy trì lối thơ truyền thống, cổ điển, như một sự hòa mình, như một trái tim đầy tình yêu. Ánh mặt trời mùa xuân đang tô điểm cho những căn nhà tranh trong làng quê thêm chút màu sắc và hương thơm của mùa xuân. Tiếng xào xạc trêu đùa của gió với những tà áo xanh biếc. Màu xanh của chiếc áo là biểu tượng của một tình yêu mùa xuân. Chữ “trêu” sao mà ngọt ngào, đặc biệt, khiến người ta nhớ đến hương vị quê hương trong những bài ca, những câu ca luôn làm xúc động trái tim… Sự kết hợp vần thơ tạo ra một sự hài hòa, cân đối và mang tính mộng mơ của mùa xuân. Chỉ với những điều đơn giản đó đã tạo nên một sức sống tràn đầy, bình yên đặc biệt ở làng quê.

‘Trên giàn tre, bóng xuân sang’. Câu thơ thể hiện rõ sự mong chờ mùa xuân sớm của tác giả. Cảm giác dịu dàng, bâng khuâng của mùa xuân được thể hiện qua câu thơ. Dòng thơ như mạch cảm xúc, mùa xuân bước vào lấp đầy khoảng trống. Xuân đến mang theo những hơi ấm, giàn hoa thiên lý bắt đầu vươn mình, phát triển mạnh mẽ. Mùa xuân thật là dịu dàng, bình yên, lan tỏa khắp nơi trong làng quê.

Có lẽ nghĩ rằng mùa xuân sẽ đến một cách chậm rãi như khung cảnh mà nó bao phủ, nhưng trong tâm hồn thơ mộng của nhà thơ, mùa xuân lại đến một cách vội vã:

‘Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời.

Bao cô thôn nữ hát trên đồi.

Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,

Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi.’

Mùa xuân đem lại cho muôn loài trong tự nhiên một sắc màu mới tươi sáng. Hình ảnh ẩn dụ về “sóng cỏ” xanh ngát “gợn tới trời” giống như những cỏ đang múa bay khi gió xuân thổi qua. Bầu trời dần nhớ lại những hình ảnh tuyệt đẹp lan tỏa khắp không gian. Điều này thể hiện tình yêu thương đặc biệt dành cho những cánh đồng, những cô gái hát vang trên những ngọn đồi. Trong bức tranh xuân ấy, tiếng hát vang lên giữa bản sắc xanh ngát của đồi núi thật là một niềm vui, như một phần của văn hóa dân tộc Việt Nam. Hình ảnh “đám xuân xanh” là biểu tượng cho những cô gái trưởng thành, sắp phải xa nhà để lấy chồng. Niềm vui càng được nhân đôi khi có thêm hạnh phúc của hôn nhân. Vậy là, khi ngày mai cô gái đến tuổi trưởng thành thì đã bước vào hôn nhân, từ bỏ những thời gian vui đùa bên bạn bè. Mặc dù có chút nuối tiếc của tuổi trẻ nhưng cũng là niềm vui khi cô gái tìm được hạnh phúc cho bản thân. Mùa xuân đến, tô điểm thêm cho cuộc sống những niềm vui, tình yêu và hạnh phúc màu hồng. Điều này cho thấy sự sống động và sự tràn đầy năng lượng của tự nhiên đang nảy nở.

Với nhà thơ Hàn Mặc Tử, tâm hồn yêu đời, yêu thiên nhiên không bao giờ phai nhạt:

‘Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,

Hổn hển như lời của nước mây,

Thầm thì với ai ngồi dưới trúc

Nghe ra ý vị và thơ ngây.’

Tiếng hát ‘vắt vẻo’ và ‘thơ ngây’ giữa rừng mùa xuân bao la đó làm sao mà quen thuộc đến vậy. Tình cảm của đôi lứa đã chín muồi, đặc biệt là trong lòng những cô gái đang ở tuổi trưởng thành, tiếng hát ‘vắt vẻo’ như một bản tình ca của mùa xuân. Đời sống tình cảm sâu đậm của nhà thơ được thể hiện một cách sâu sắc trong lời ca đấy, và nó càng “chín” hơn trong những mùa xuân khi có người thì thầm, chia sẻ cùng nhau. Âm thanh của bài hát vẫn còn đọng lại trong từng dòng thơ, hòa nhịp âm u, bay bổng tạo ra một sự hài hòa âm thanh tinh tế. Tâm hồn mộng mơ của nhà thơ hòa quyện với thế giới của những âm sắc mùa xuân. Tiếng hát “hổn hển” được so sánh với “lời của nước mây”, nó như nhịp thở vội vàng của mùa xuân. Đôi lứa thì thầm, chia sẻ dưới rặng trúc bao la, gắn kết tình cảm với nhau để tìm niềm vui, hạnh phúc. Đoạn thơ mang đậm nhiều cung bậc âm thanh của mùa xuân, chứa đựng niềm vui, sự tươi mới. Chính những điều đó khiến cho độc giả cảm nhận được “ý vị và thơ ngây” của khung cảnh thiên nhiên mùa xuân, đầy bâng khuâng và xao xuyến nếu họ đã từng trải qua:

‘Khách xa gặp mùa xuân rộn ràng,

Cảnh sắc khơi gợi nhớ về làng quê.

Chị ấy năm nay vẫn mang gánh thóc,

Dọc bờ sông nắng trắng chang chang.’

Những du khách, những con xa quê mỗi khi bắt gặp khung cảnh xuân yên bình, tươi mới trên những làng quê thì họ không quên được. Những cảnh đẹp đó gợi lên trong họ những kí ức xưa cũ, những nỗi nhớ da diết về quê hương. Nếu đầu thơ đã mô tả một mùa xuân tươi mới, xanh ngát, bây giờ là lúc mùa xuân chín. Ánh nắng chói chang của mùa hè thay thế sự ấm áp, mùa xuân phát triển xanh tốt. Hình ảnh người chị mang gánh thóc dọc bờ sông là hình ảnh của người phụ nữ lúc xuân thì, sau khi đã lấy chồng và phải lo toan cuộc sống. Cuộc sống đã đưa họ đến với những gian khó, nhưng đó là nét đẹp của lao động của người phụ nữ Việt Nam.

Bài thơ nhẹ nhàng, ngôn ngữ đơn giản giúp nhà thơ truyền đạt cảm xúc của mình một cách rõ ràng. Từng dòng chữ như một biển yêu thương, dành cho quê hương khó xa và cho những kỷ niệm về mái ấm. Ngôn ngữ tinh tế và tấm lòng nhân hậu của nhà thơ khiến cho bài thơ “Mùa xuân chín” tràn đầy cảm xúc.